Công lý là gì? Cơ quan tư pháp làm gì? Quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013? Mời các bạn cùng đọc bài viết dưới đây.

1. Tư pháp là gì?

Theo thuyết tam quyền phân lập, tư pháp là một trong ba cơ quan quyền lực nhà nước: lập pháp (làm luật, ban hành luật); hành pháp (thực thi pháp luật) và tư pháp (giữ gìn và bảo vệ) pháp luật, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật). Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam, tư pháp chỉ là công việc tổ chức, giữ gìn và bảo vệ pháp luật.

Tư pháp cũng là một thuật ngữ chung để chỉ các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử hoặc các cơ quan thực hiện nhiệm vụ hành chính tư pháp. Ví dụ: Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp …

2. Cơ quan tư pháp là gì?

Tư pháp (hay hệ thống tư pháp) là một hệ thống tòa án để xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp. Theo phân tách quyền lực, tư pháp là nhánh chính của một chính thể với trách nhiệm chính là giải thích luật.

Khái niệm về tư pháp là gì?

3. Hệ thống cơ quan tư pháp thời kì hiện nay

Hệ thống tư pháp nước ta giai đoạn 1992 đến nay tiếp tục được củng cố và hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị, thành tố hợp lý của hệ thống tư pháp các thời kỳ trước và đồng thời. có những thay đổi quan trọng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, nhất là sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào tháng 12 năm 2001. Có thể tóm tắt những điểm mới chính như sau:

a) Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự từ Trung ương đến địa phương được thành lập, bao gồm: Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (ở Trung ương); Chi cục thực thi (cấp tỉnh) và đội cưỡng chế (cấp huyện). Đây là điểm mới quan trọng trong quá trình củng cố và phát triển hệ thống tư pháp nước ta thời kỳ này.

b) Có sự điều chỉnh đáng kể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp:

– Đối với hệ thống tòa án nhân dân, một số tòa chuyên trách mới được thành lập (tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính); bổ sung hai nguyên tắc mới trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân: Tòa án có thể xét xử kín “để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ” (Điều 7 Luật tổ chức Tòa án). Tòa án nhân dân (sửa đổi năm 1993) và nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế (Điều 8 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1995); bãi bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm, chung thẩm của TANDTC; Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được áp dụng và thực hiện phân cấp: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

– Đối với hệ thống viện kiểm sát nhân dân, chức năng của viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (không còn chức năng kiểm sát chung); đặt Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

– Đối với hệ thống cơ quan điều tra về cơ bản vẫn được củng cố và hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển mô hình tổ chức và hoạt động của giai đoạn trước.

– Đối với các cơ quan thi hành án dân sự được giao chính quyền địa phương thực hiện một số hoạt động nhằm tăng cường phối hợp chỉ đạo, nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự.

Nhìn lại sự hình thành và phát triển của hệ thống tư pháp ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua, có thể thấy rằng hệ thống tư pháp là một bộ phận quan trọng của bộ máy nhà nước. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta gắn liền với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp luôn mang những dấu tích lịch sử của từng thời kỳ. cụ thể đó. Hiện nay, khi sự nghiệp đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được đặt ra. Nhiều vấn đề mới, trong đó có cải cách tư pháp, đòi hỏi phải tiếp tục có những nghiên cứu toàn diện, cơ bản để xây dựng cơ sở khoa học cho công cuộc cải cách đó. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để thực hiện nhiệm vụ này và việc nghiên cứu, đánh giá dưới góc độ lịch sử chắc chắn sẽ là một trong những hướng đi cần được tiếp tục.

4. Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013

Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước. quyền và nghĩa vụ phát sinh từ, bổ sung, thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, được Tòa án thực hiện theo thủ tục tố tụng nghiêm minh, dân chủ, công khai, công bằng, nhằm khôi phục và duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức bị xâm phạm và các cá nhân, và góp phần đảm bảo luật pháp được tôn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt. Khoản 3 Điều 2 và Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp. , hành pháp, tư pháp. ”; “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới hạn nghiên cứu về quyền tư pháp và cơ quan thực thi quyền tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, theo đó, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về luật. Quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp, vì ngoài các quy định có liên quan trong Hiến pháp năm 2013, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung này.

Nhận thức về quyền tư pháp

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, quyền tư pháp và quyền thực hiện quyền tư pháp được phân định rõ ràng. Tuy nhiên, khái niệm quyền tư pháp vẫn chưa được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền định nghĩa một cách chính thức hoặc giải thích một cách thống nhất, dẫn đến những nhận thức khác nhau về quyền tư pháp. Xung quanh nội dung này, hiện có các nhóm quan điểm sau:

+ Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền lợi chính đáng. lợi ích của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Theo nhóm quan điểm này, quyền tư pháp không chỉ được thực hiện bởi cơ quan xét xử (tòa án) mà còn được thực hiện bởi Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra và các cơ quan trợ giúp tư pháp, như: Luật sư, Công tố viên, người giám định, tư vấn pháp luật, v.v. Những người giữ quan điểm này, căn cứ vào Nghị quyết 08-NQ / TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ / TW ngày 02/6/2005 của Bộ Tài chính. Chính trị của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

+ Nhóm quan điểm thứ hai: Quyền tư pháp là quyền mà Nhà nước giao cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động, … theo trình tự, thủ tục tư pháp, bao gồm cả tố tụng hình sự, dân sự. thủ tục, thủ tục hành chính,… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án đều thực hiện quyền tư pháp ở những mức độ khác nhau. Việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án gắn liền với chức năng xét xử và chỉ được thực hiện khi và chỉ khi xét xử, nhưng không bao hàm các chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân chỉ xảy ra khi vụ án được chuyển cho Tòa án xem xét, giải quyết và hoàn toàn độc lập với hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, thực hiện quyền công khai. truy tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Vì vậy, quyền Tư pháp được hiểu là tập hợp các hoạt động cụ thể do các cơ quan tư pháp thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án, tranh chấp pháp lý, hướng tới mục đích xét xử. giải quyết các vụ việc, tranh chấp một cách khách quan, đúng đắn và các hoạt động liên quan đến việc thi hành bản án của Tòa án thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Tòa án. thi hành án.

+ Nhóm quan điểm thứ ba: Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua trọng tài và xét xử tính đúng đắn, hợp pháp của các hành vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có xung đột lợi ích. tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các pháp nhân. Theo quan điểm này, chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là Tòa án và hoạt động tư pháp chỉ là hoạt động xét xử. Nhắc đến tư pháp là nói đến lĩnh vực hoạt động xét xử của Tòa án và ngược lại. Cùng chung quan điểm, theo PGS.TS. GS.TS Nguyễn Đăng Dung, trong chuyên khảo “Các thiết chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, 2004, trang 11, đã viết: “Tư pháp là một lĩnh vực của pháp luật. Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua trọng tài và phán quyết trên tính đúng đắn, hợp pháp của các hành vi, quyết định hợp pháp khi có tranh chấp về quyền và lợi ích

5. Cơ quan tư pháp ở Việt Nam là cơ quan nào?

Hình ảnh một phiên tòa xét xử tại Việt Nam.
Hình ảnh một phiên tòa xét xử tại Việt Nam.

Hệ thống tư pháp ở Việt Nam bao gồm các cơ quan sau:

  • Viện kiểm sát nhân dân: Là cơ quan tư pháp, giữ quyền công tố trong bộ máy nhà nước Việt Nam, có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp ở Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân được chia thành bốn cấp: Cấp tối cao, cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện; đối với Viện kiểm sát quân sự có Viện kiểm sát trung ương, quân khu, khu vực.
  • Tòa án nhân dân: Là cơ quan xét xử, giữ vai trò xét xử (dân sự, hình sự, hành chính) và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam. Cũng giống như Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân cũng được chia thành 4 cấp: Cấp tối cao, cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện (đối với toà án quân sự thì có cấp trung ương, cấp quân khu và cấp khu vực).

6. Viện kiểm sát có phải là cơ quan tư pháp không?

Qua các dẫn chứng tại Mục 5, chúng ta có thể thấy Viện kiểm sát là cơ quan xét xử trong hệ thống tư pháp Việt Nam. Viện kiểm sát thực hiện hai chức năng:

  • Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự nhằm thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết. tố giác, bán tin về tội phạm, kiến ​​nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
  • Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động của mình. Sự công bằng.

7. Bộ Tư pháp có phải là cơ quan tư pháp không?

Bộ máy nhà nước hiện nay của nước ta cơ bản được chia thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan hành pháp và hệ thống cơ quan tư pháp.

Trong đó, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước hiện nay bao gồm:

  • Chính phủ: Đây là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Việt Nam. Hỗ trợ Chính phủ là các Bộ, cơ quan ngang Bộ như Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,… Ngoài ra còn có các cơ quan thuộc Chính phủ như Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam,…
  • UBND các cấp (Cũng giống như HĐND, UBND cũng được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã): Đây là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Như vậy, phân tích trên có thể khẳng định Bộ Tư pháp tuy có tên là Tư pháp nhưng không phải là cơ quan Tư pháp mà Bộ Tư pháp là cơ quan hành pháp.

Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện các chức năng sau:

  • Quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật;
  • Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, tương trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và các công tác tư pháp khác trong lĩnh vực pháp luật. trên toàn quốc;
  • Quản lý việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
  • Quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công thuộc các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

XEM THÊM TẠI: https://hip-cooking.com/